THẬP TOÀN ĐẠI BỔ - SỰ KẾT HỢP TINH TÚY GIỮA CÁC VỊ THUỐC
Bài thập toàn đại bổ bài hợp lại từ bài Bát trân (gồm hai bài thuốc là bài Tứ quân với tác dụng bổ khí và Tứ vật bổ huyết), thêm hoàng kỳ bổ khí, nhục quế làm ôn ấm, thông kinh lạc.
Sự “thần diệu” của bài Thập toàn đại bổ là sự kết hợp hoàn hảo giữa các vị thuốc để cho điều trị hiệu quả cao. Ở đây xuất hiện hai bài thuốc kinh điển là Tứ vật và Tứ quân, thêm hoàng kỳ là thuốc bổ khí thông dụng và nhục quế làm ấm kinh lạc…
Bài thuốc thập toàn đại bổ gồm:
Đương quy 12g,
Xuyên khung 12g,
Thục địa 20g,
Bạch thược 12g,
Nhân sâm 12g,
Bạch linh 12g,
Bạch truật 12g,
Cam thảo 10g,
Hoàng kỳ 10g
Nhục quế 6g.
1. Bài thuốc Tứ vật (bổ huyết) gồm: đương quy, thục địa, bạch thược, xuyên khung. Đây là bài thuốc vừa bổ huyết, vừa hoạt huyết (người xưa còn nói bài thuốc này là bài thuốc chuyên để điều huyết “Điều huyết chi chuyên tễ”).
Bài thuốc Tứ vật thang được ghi trong tác phẩm Thái bình huệ dân - Hòa tễ cục phương, được Danh y Chu Đan Khê trọng dụng. Đây là bài thuốc chủ đạo trong điều trị huyết hư, bổ huyết mà không trệ, hành huyết mà không phá, trong bổ có tán, trong tán có thu, giúp điều hòa kinh nguyệt, nên còn được xem là phương thuốc quý của phụ nữ. Cái hay của người thầy thuốc nằm ở chỗ “dụng dược”, cùng là bài Tứ vật nhưng tuỳ vào mục đích sử dụng mà có thể bào chế, tăng giảm vị thuốc.
Thục địa là quân dược trong bài thuốc, là vị thuốc được chế từ tiên địa hoàng (rễ tươi của cây địa hoàng), qua cửu chưng cửu sái (chín lần chưng, chín lần phơi) mà thành.Tiên địa hoàng có vị ngọt, đắng, tính hàn - tác dụng thanh nhiệt là chính, còn thục địa có vị ngọt, tính ấm, quy ba kinh âm, bổ huyết là chính.Qua chưng - phơi, thục địa có tác dụng tư bổ Can âm, ích Thận tinh, dưỡng Tâm huyết.
Đương quy có vị ngọt, cay, tính ôn, quy vào ba kinh âm.Toàn đương quy tác dụng bổ dưỡng toàn cơ thể.Quy thân có sức bổ huyết mạnh nhất, dùng cho huyết hư nhiều mà không có huyết ứ.Quy vĩ (đuôi của đương quy) có tác dụng tiêu ứ mạnh, dùng khi huyết hư kèm huyết ứ.Đương quy tu (nhánh bên của củ đương quy), bổ âm huyết kém hơn, chủ yếu thông kinh lạc.
Bạch thược có vị đắng, chua, hơi hàn, quy kinh Can, Tỳ, có tác dụng dưỡng huyết, liễm âm, hoà Can chỉ thống.bạch thược nếu được chế với rượu và sao vàng với cám thì sẽ khử được tính hàn, tăng tác dụng bổ Can, Tỳ.
Xuyên khung có vị cay, tính ôn, quy kinh Can, Đởm.Xuyên khung có vị cay nên có khả năng tán kết, là thuốc “trị huyết trong khí”. Sách Bản thảo hội ngôn có ghi: “Vị xuyên khung, thượng hành đầu mục, hạ điều kinh thủy, trung khai uất kết, huyết trung khí dược”, nên dùng cho bệnh khí huyết đều tốt.
2. Bài thuốc Tứ quân (bổ khí) gồm các vị: nhân sâm, bạch linh, bạch truật, cam thảo (chích).
Bài chủ yếu để bổ khí hoặc kiện tỳ, ích khí. Trong đó, nhân sâm bổ khí, bổ chân khí (nguyên khí), bổ 5 tạng có tính cam ôn, là chủ dược. Bạch truật vị đắng ôn kiện tỳ táo thấp. Phục linh ngọt nhạt hợp với Bạch truật để kiện tỳ thẩm thấp, tăng cường chức năng vận hóa của tỳ vị. Cam thảo ngọt ôn bổ trung hòa vị.
Tất cả phối ngũ tạo nên một bài thuốc có công năng bồi bổ khí huyết thật sự tuyệt vời.
#https://drhangvn.com/thap-toan-dai-bo